Người bắt đầu
Bạn đang đọc bây giờ
Goldman Sachs - ngân hàng đầu tư hay Ma cà rồng địa ngục của Phố Wall? phần tôi
0

Goldman Sachs - ngân hàng đầu tư hay Ma cà rồng địa ngục của Phố Wall? phần tôi

tạo Forex Club17 Tháng 2 2023

Goldman Sachs là một trong những tổ chức tài chính nổi tiếng nhất thế giới. Một phần là do quy mô hoạt động của nó, cũng như bản vá thường xuyên bị ghim "người thao túng" thị trường tài chính. Trong một bài báo nổi tiếng của Matt Taibi, Goldman Sachs được so sánh với ma cà rồng địa ngục (Mực ma cà rồng).

Goldman Sachs được thành lập vào năm 1869 tại New York bởi Marcus Goldman. Hơn 150 năm lịch sử, công ty đã chuyển đổi từ một thực thể nhỏ thành một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất thế giới. Trong bài viết hôm nay, chúng tôi sẽ trình bày về lịch sử của tổ chức này và những người đã để lại dấu ấn trong lịch sử của ngân hàng này. Mời các bạn đón đọc!

Sự khởi đầu của Goldman Sachs

00 Goldman Marcus

Marcus Goldman. Nguồn: wikipedia.com

Công ty được thành lập vào cuối những năm XNUMX và bắt đầu hoạt động trong lĩnh vực tài chính. Đó là một doanh nghiệp nhỏ phải cạnh tranh trong một thị trường dịch vụ tài chính phân mảnh. Có hai khía cạnh quan trọng quan hệ khách hàng hoặc danh tiếng. Các mối quan hệ được hỗ trợ bởi mạng lưới quan hệ, vào thời đó, nhờ có "người quen", công việc kinh doanh có thể phát triển nhanh hơn nhiều. Đổi lại, để đạt được danh tiếng phải mất nhiều năm cung cấp dịch vụ tốt với giá cả phải chăng. Người hùng của bài viết hôm nay ban đầu chọn cách thứ hai.

Một trong những bước ngoặt là năm 1882. Sau đó, Samuel Sachs, con rể của người sáng lập công ty - Marcus Goldman, gia nhập công ty. Sau đó, tên này được đổi thành Goldman Sachs & Co. Một bước ngoặt khác là vào năm 1896 khi Goldman Sachs gia nhập hội viên Chứng khoán New York (NYSE). Điều này cho phép công ty dang rộng đôi cánh của mình và dễ dàng có được mạng lưới quan hệ kinh doanh hơn.

Mười năm sau khi trở thành thành viên của NYSE, Goldman Sachs đã tiến hành đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) của Sears, Roebuck và Company. Thỏa thuận có thể thực hiện được vì Henry Goldman là bạn của Julius Rosenwald. Trong những năm tiếp theo, Goldman Sachs trở thành người tổ chức các đợt IPO tiếp theo. Danh sách khách hàng bao gồm các công ty như Woolworth và Continental Can. Năm 1912, Goldman Sachs quyết định thuê một đối tác không phải là thành viên của gia đình Goldman hay Sachs. Người đó là Henry S. Bowers. Vì vậy, đó là bước đầu tiên để Goldman Sachs từ bỏ tình trạng doanh nghiệp gia đình.

Chiến tranh thế giới thứ nhất là thời điểm xảy ra sự chia rẽ lớn đầu tiên trong công ty. Căng thẳng leo thang từ nửa cuối năm 1914, lên đến đỉnh điểm vào năm 1917. Lý do là thái độ thân Đức của Henry Goldman (ông xuất thân từ một gia đình người Đức nhập cư). Henry Goldman năm 1915 đã công khai bày tỏ sự ủng hộ đối với chính sách của Đức. Điêu nay bao gôm vì anh ta, Goldman Sachs đã từ bỏ việc đồng tài trợ cho Pháp và Anh vào năm 1915. Thậm chí sau đó, một số đối tác không hài lòng với điều này. Với việc Hoa Kỳ tham gia cuộc chiến về phía Entente, một tình huống như vậy đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh. Năm 1917, trước áp lực từ các đối tác, Henry Goldman đã từ chức khỏi vai trò đối tác của công ty. 

1918 - 1930: từ trên xuống dưới

Roaring Twenties là thời điểm thu được lợi nhuận cao trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư và thương mại. Thị trường giá lên mạnh mẽ đã khuyến khích nhiều công ty ra mắt trên thị trường chứng khoán. Điều này có nghĩa là Goldman Sachs không gặp khó khăn gì trong việc tìm kiếm những khách hàng cần tư vấn tài chính. Hoạt động mua bán cũng ngày càng hấp dẫn hơn. Thị trường tăng giá có nghĩa là đầu tư tích cực và tận dụng vị thế là cơ hội để đạt được lợi nhuận trên mức trung bình. Tuy nhiên, năm 1929 các nhà đầu tư đã được xác minh với đòn bẩy lớn. Nhiều nhà đầu tư nổi tiếng thời bấy giờ đã đứng trước bờ vực phá sản.

Sau khi bong bóng của những năm 20 vỡ và bắt đầu Đại khủng hoảng, Goldman Sachs thấy mình đang gặp rắc rối nghiêm trọng. Lý do là khoản lỗ lớn của quỹ đóng Goldman Sachs Trading Corp., được thành lập vào tháng 1928 năm XNUMX, vài tháng trước vụ sụp đổ. Do đó, Goldman Sachs đã định hướng lại hoạt động của mình. Các hoạt động ngân hàng đầu tư được chú trọng nhiều hơn và các hoạt động giao dịch được giảm thiểu. Ông đã giúp xây dựng lại danh tiếng bị hoen ố của ngân hàng SydneyJames Weinbergai giành được biệt danh Ông. Phố Wall. 

Sidney Weinberg - đứa con vàng của Phố Wall

01 Goldman Sidney_Weinberg

Sidney Weinberg. Nguồn: wikipedia.org

Câu chuyện của Sidney Weinberg rất thú vị. Ông bắt đầu với vị trí thấp nhất tại Goldman Sachs. Anh ấy là trợ lý lao công với mức lương 3 đô la một tuần. Ông xử lý, trong số những người khác lau giày và mũ của nhân viên Goldman Sachs. Paul J. Sachs, cháu trai của người sáng lập công ty đã giúp ông phát triển sự nghiệp. Paul Sachs thích Sidney và quyết định giúp anh ta. Anh ta chuyển anh ta đến một công ty luật mà Sidney đã tổ chức lại. Công ty nhận thấy tiềm năng to lớn của Weinberg đã quyết định quan tâm đến việc học của anh. Sidney đăng ký học tại Browne's Business College ở Brooklyn.

Sau Thế chiến I, Weinberg bắt đầu sự nghiệp của mình với tư cách là một thương nhân. Năm 1925, Goldman Sachs quyết định mua cho ông một suất trên thị trường chứng khoán New York. Đó là một tín dụng lớn của sự tin tưởng. Hai năm sau, nhờ thành công trong lĩnh vực đầu tư và chuyên nghiệp, Sidney trở thành đối tác của công ty. Ông làm việc với Waddill Catchings tại Goldman Sachs Trading Corp. Kết quả là thua lỗ, Goldman đang trên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, nhờ tài quản lý của Weinberg, công ty đã xoay chuyển tình thế. Năm 1930, Sidney trở thành người đứng đầu Goldman Sachs và giữ chức vụ này cho đến khi qua đời vào năm 1969.

Nhờ nỗ lực to lớn của Weinberg và các nhân viên của Goldman Sachs, công ty đã đứng vững trở lại. Sự gia tăng danh tiếng được chứng minh bằng việc tổ chức phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng (IPO) của Ford Motor Company vào năm 1956. Đó là một vinh dự lớn cho công ty, vì nó đã chiến thắng trong cuộc cạnh tranh với các đối thủ lớn hơn nhiều. Goldman Sachs đã không ngừng phát triển, cũng bằng cách đa dạng hóa các hoạt động của mình. Một ví dụ là việc thành lập bộ phận phân tích thị trường. Điều đáng chú ý là ngân hàng là một trong những ngân hàng tiên phong trong việc phân xử rủi ro.


ĐỌC: JP Morgan Chase – một trong những ngân hàng đầu tư nổi tiếng nhất thế giới


Những năm 70: thời gian sau Weinberg

Goldman Sachs đã rất may mắn với nhân viên vào thời điểm đó. Hơn nữa, văn hóa tổ chức cho phép nhân viên thăng tiến nhanh chóng từ bên dưới, miễn là họ thể hiện những kỹ năng hữu ích cho công ty. Đây là trường hợp của Gus Levy, người đã gia nhập Goldman vào những năm XNUMX. Gus là người đầu tiên sử dụng giao dịch khối tại Goldman Sachs. Những thành công của anh ấy trong lĩnh vực giao dịch cho phép anh ấy nâng cao vị trí của mình trong tổ chức. Sau năm 1969, Gus Levy trở thành Đối tác cấp cao, cho phép phát triển mảng giao dịch trong công ty.

Levy cũng thay đổi triết lý đầu tư của ngân hàng. Nó có thể được đặc trưng như là"tham lam về lâu dài". Điều này có nghĩa là Goldman Sachs phải tập trung vào việc tối đa hóa lợi nhuận trong dài hạn. Theo Gus, các khoản lỗ ngắn hạn không phải là lý do để thay đổi chiến lược đầu tư. Levy cũng thuyết phục các đối tác tái đầu tư một phần đáng kể thu nhập của họ vào hoạt động của ngân hàng. Điều này nhằm khuyến khích các đối tác xem xét các hoạt động của Goldman Sachs trong dài hạn.

Năm 1970, chi nhánh nước ngoài đầu tiên được mở - sự lựa chọn rơi vào London. Ngay khi tưởng chừng như tương lai của công ty đang tươi sáng thì vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử nền kinh tế Mỹ lại xảy ra. Cùng năm Goldman Sachs mở chi nhánh ở nước ngoài, Penn Central Transportation Company sụp đổ. Doanh nghiệp sụp đổ chỉ hai năm sau khi thành lập. Goldman Sachs đã tham gia vào vấn đề nợ của công ty với giá 80 triệu đô la. Điều này đã làm hoen ố danh tiếng của ngân hàng. Tệ hơn nữa, Goldman đã tham gia vào nhiều vụ kiện, có thể đặt ra câu hỏi về hoạt động liên tục của ngân hàng.

Tuy nhiên, ngân hàng lại bình an vô sự. Ngay từ năm 1972, Goldman đã mở một bộ phận chịu trách nhiệm về Quản lý tài sản do sự quan tâm của khách hàng. Lúc đầu, hoạt động tập trung vào thị trường chứng khoán nợ. Theo thời gian, ưu đãi đã được mở rộng đáng kể. Phước lành là sự sụp đổ của Hệ thống Bretton Woods, mang lại tỷ giá hối đoái thả nổi. Một mặt, nó cho phép tìm kiếm những khách hàng cần dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực quản lý rủi ro tiền tệ, mặt khác, nó tạo cơ hội để phát triển hoạt động giao dịch.

02 Goldman John C. Đầu trắng

John C. Đầu trắng. Nguồn: Wikipedia.org

Năm 1974, Goldman Sachs lại là người tiên phong trên thị trường. Đây là ngân hàng đầu tư đầu tiên phát triển, thực hiện và phổ biến một chiến lược gọi là "Hiệp sĩ trắng". Đây là một chiến lược dựa trên sự "tiếp quản thân thiện" với mức giá hợp lý. Mục tiêu là để bảo vệ công ty khỏi sự tiếp quản thù địch tiềm ẩn. Hiệp sĩ trắng làm việc với ban quản lý của công ty đang gặp rủi ro và phát triển một chiến lược có lợi nhất cho các cổ đông của công ty. Năm 1974, Goldman Sachs đã bảo vệ Pin lưu trữ điện khỏi sự tiếp quản thù địch của International Nickel và Morgan Stanley.

Năm 1976, John L. Weinberg, con trai của Sidney Weinberg, trở thành một trong hai Đối tác cấp cao của công ty. Một trong những thành quả của sự hợp tác giữa John L. Weinberg và John C. Whitehead là sự phát triển của 14 quy tắc kinh doanh mà Goldman Sachs đề cập đến ngày nay. Các quy tắc bao gồm, trong số những người khác:

  • đặt lợi ích của khách hàng lên hàng đầu
  • quan tâm đến danh tiếng, nhân viên và vốn của bạn,
  • quan tâm đến phúc lợi của các cổ đông.

1980 – 2000: một giai đoạn phát triển năng động khác

Năm 1981, Goldman Sachs tiếp quản J. Aron & Company, chuyên kinh doanh nguyên vật liệu và nông sản (chủ yếu giao dịch kỳ hạn trên vàng i cà phê). Với việc mua lại J. Aron, Goldman Sachs đã được tham gia bởi Lloyd Blankfein, người đóng vai trò rất quan trọng trong lịch sử của ngân hàng trong những năm tiếp theo. Chính Blankfein là CEO của ngân hàng này trong những năm 2006 - 2018. Nhờ đó, ông là một trong số ít Giám đốc điều hành “sống sót” qua cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn tại Mỹ.

Năm 1985, Goldman Sachs tham gia đợt phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng REIT. Giá trị của các tài sản khi đó thuộc về Rockefeller Center Properties Inc khi đó được ước tính vào khoảng 1,6 tỷ USD. Vào thời điểm đó, đây là lần ra mắt REIT lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ vào thời điểm đó. Doanh nghiệp nói trên sở hữu Trung tâm Rockefeller.

Một năm sau, bộ phận Quản lý tài sản Goldman Sachs (GSAM) được thành lập, chuyên xử lý việc quản lý các quỹ phòng hộ và đầu tư của chính họ.. Năm 1986 cũng là thời điểm ra mắt microsoft. Tất nhiên, ông ấy đã tư vấn cho Goldman Sachs trong đợt IPO. Vào cuối những năm XNUMX, cũng có sự mở rộng các hoạt động đối ngoại. Ngân hàng đã có mặt trên các thị trường chứng khoán phát triển quan trọng nhất bên ngoài Hoa Kỳ: Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn và Sở giao dịch chứng khoán Tokyo. Tại Anh, ngân hàng nhanh chóng gia nhập nhóm dẫn đầu thị trường M&A.

Sự sụp đổ của Liên Xô và sự chuyển đổi chính trị của Khối Đông Âu đã tạo ra những cơ hội phát triển lớn cho ngân hàng. Giai đoạn tư nhân hóa các doanh nghiệp nhà nước diễn ra từ đầu những năm 90 đã mang lại lợi nhuận đặc biệt lớn. Năm 1994, ngân hàng mở chi nhánh đầu tiên tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Lý do là mong muốn tham gia vào thị trường Trung Quốc đang phát triển nhanh chóng.

Vào đầu những năm 90 ngân hàng thiết kế GSCI (Goldman Sachs Commodity Index)theo dõi hành vi của các nguyên liệu thô quan trọng nhất. Chỉ số này là tiêu chuẩn của nhiều quỹ đầu tư vào thị trường hàng hóa cho đến ngày nay.

03Yahoo

Nguồn: wikipedia.org

Giai đoạn những năm 90 là thời điểm thị trường chứng khoán Mỹ tăng giá mạnh. Cả cuộc khủng hoảng Mexico và Châu Á và tiếng Nga. Sự tăng trưởng năng động được hỗ trợ bởi sự mở cửa lớn hơn của các nền kinh tế thuộc Khối phía Đông và Trung Quốc, điều này một mặt làm tăng nhu cầu đối với các sản phẩm phương Tây, mặt khác mang lại khả năng giảm chi phí sản xuất. Lĩnh vực công ty công nghệ cũng phát triển sôi động. Goldman cũng ở đó. Năm 1996, ngân hàng đã tham gia IPO của một trong những ngôi sao của những năm đó - Yahoo!. Hai năm sau, họ là một trong những nhà tổ chức chính của NTT DoCoMo OPO. Công ty viễn thông Nhật Bản đã huy động được hơn 18 tỷ USD từ đợt IPO.

1999 - Goldman Sachs trở thành công ty đại chúng

Trong nhiều năm đã có những cuộc thảo luận bên trong ngân hàng về việc trở thành một công ty đại chúng. Nhiều nhà lãnh đạo của ngân hàng đã cố gắng thuyết phục các đối tác thực hiện một bước như vậy. Tuy nhiên, nó không đơn giản như vậy. Các đối tác sợ rằng Goldman sẽ đánh mất văn hóa tổ chức. Nỗ lực thuyết phục của các đối tác lớn tuổi không có kết quả. Cả Sidney Weinberg lẫn bộ đôi Robert Rubin & Steve Friedman đều không thể thuyết phục đối tác thực hiện bước đi như vậy. Vào cuối những năm 90, Goldman Sachs là ngân hàng đầu tư lớn cuối cùng không được giao dịch công khai.

Định giá thị trường cao cuối cùng đã thuyết phục được các đối tác của Goldman Sachs chuyển ngân hàng thành công ty cổ phần. IPO của ngân hàng đầu tư diễn ra vào tháng 1999 năm XNUMX. Theo đề nghị, 12,6% cổ phần của ngân hàng đã đến tay các nhà đầu tư như một phần của đợt chào bán công khai. Đổi lại, 221 đối tác đã nhận tổng cộng 48,3% cổ phần trong công ty. 21,2% cổ phần khác được chuyển nhượng cho nhân viên ngân hàng không giữ chức vụ đối tác. 17,9% còn lại thuộc về các đối tác cũ, nhà đầu tư dài hạn và Ngân hàng Sumitomo và Trường Kamehameha. Henry Paulson trở thành Giám đốc điều hành và Chủ tịch Hội đồng quản trị. Công ty đã huy động được hơn 3,5 tỷ đô la để phát triển hơn nữa tổ chức.

Tiền từ IPO đã giúp hoàn thành việc mua lại Spear, Leeds & Kellogg với giá 6,3 tỷ USD. Công ty đã được mua bằng một đợt phát hành cổ phiếu và tiền mặt. Giá trị 4,4 tỷ đô la là cổ phiếu của Goldman Sachs, trong khi 1,9 tỷ đô la được trả bằng tiền mặt. Spear, Leeds & Kellogg xử lý i.a. cung cấp dịch vụ thanh toán bù trừ và các hoạt động tạo lập thị trường trên Sàn giao dịch chứng khoán New York.

2001 – 2008: bùng nổ nguyên vật liệu và bùng nổ bất động sản

Đó là đầu thế kỷ XNUMX Bong bóng thị trường dotcom bùng nổ. Điều này có nghĩa là thời kỳ sáp nhập lớn và ra mắt ngoạn mục của các công ty công nghệ và viễn thông đã là dĩ vãng. Điều đó không có nghĩa là Goldman Sachs ngừng phát triển. Sự hiện diện ở các thị trường đang phát triển, nơi trải qua sự bùng nổ liên quan đến giá hydrocarbon ngày càng tăng, đã giúp ích.

Năm 2001, Goldman Sachs (cụ thể là Jim O'Neil) lần đầu tiên đặt ra thuật ngữ BRIC liên quan đến các nền kinh tế đang phát triển năng động Brazil, Nga, Ấn Độ oraz Cái cằm. Theo thời gian, hậu tố S (Nam Phi) đã được thêm vào từ viết tắt này. Trước làn sóng thành công của BRIC, thứ đã nhanh chóng lan truyền trên các phương tiện truyền thông, Goldman đã đặt ra thuật ngữ "Mười một người tiếp theo". Trong số các quốc gia được đưa vào danh sách 11, trong số những quốc gia khác, có: Bangladesh, Ai Cập, Indonesia, Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam và Hàn Quốc.

04Lyd Blankfein

Lloyd Blankfein. Nguồn: wikipedia.org

Năm 2004, Lloyd Craig Blankfein, người đã làm việc tại ngân hàng từ năm 1981, được bổ nhiệm làm Giám đốc điều hành.. Hai năm sau, ông trở thành CEO sau khi Henry Paulson trở thành Bộ trưởng thứ 74 của Bộ Tài chính Hoa Kỳ. Chính Blankfein là người ủng hộ mạnh mẽ việc ngân hàng tham gia vào thị trường hàng hóa. Sự bùng nổ nguyên vật liệu giúp tăng đáng kể doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng. Từ năm 2003 đến 2007, doanh thu tăng từ 16 tỷ USD lên 43 tỷ USD. Mặt khác, lợi nhuận ròng cải thiện từ 3 tỷ USD lên 11,6 tỷ USD. Thị trường bất động sản Mỹ cũng góp phần mang lại kết quả tốt hơn. Goldman sau đó đã tham gia, trong số những người khác, trong việc bán các công cụ tài chính dựa trên bất động sản. Đó là một mỏ vàng. Các sản phẩm có vẻ an toàn vì thị trường bất động sản được coi là tài sản an toàn. Các mô hình quản lý rủi ro tiên tiến tạo ra ảo tưởng rằng rủi ro đã được kiểm soát. Tuy nhiên, đòn bẩy quá mức của một số tổ chức tài chính đã tạo ra rủi ro mạng và đe dọa sự ổn định của hệ thống tài chính toàn cầu.

2008 – 2009: Khủng hoảng BĐS

Việc chứng khoán hóa các khoản vay và thế chấp đã tạo ra một lĩnh vực hoàn toàn mới trên thị trường tài chính. Sản phẩm dựa trên chứng khoán hóa nợ cầm cố bắt đầu mọc lên như nấm sau mưa. Hơn nữa, ngày càng có nhiều công cụ phức tạp dựa trên các khoản vay thế chấp gián tiếp bắt đầu được tạo ra (ví dụ: CDO tổng hợp, CDS trên CDO, v.v.).

Sự bùng nổ của thị trường bất động sản không thể kéo dài mãi. Một số nhân viên của Goldman Sachs bắt đầu nhận ra điều này vào mùa hè năm 2007. Họ bị thuyết phục nhất về sự sụp đổ sắp xảy ra trên thị trường bất động sản Micheal Swenson oraz Josh Birnbaum. Họ bắt đầu thực hiện các vị thế bán trên nhiều MBS (Chứng khoán đảm bảo bằng thế chấp) với mức xếp hạng thấp (dựa trên các khoản vay dưới chuẩn, tức là khách hàng ít triển vọng hơn). Nhờ đó Goldman Sachs đã kiếm được 4 tỷ đô la trong các giao dịch và trả tiền thưởng 10 con số cho các giao dịch của mình.

05 Warren Buffet

Warren Buffett. Nguồn: wikipedia.org

Tuy nhiên, quy mô của các vấn đề mà ngân hàng phải đối mặt lớn hơn nhiều. lý do là Lehman Brothers phá sản, khiến thị trường tài chính Mỹ đau tim trước một bước. Goldman Sachs rất cần được bơm vốn. Kết quả là, anh ấy đã đồng ý ký hợp đồng với Berkshire Hathawayđã nắm lấy cơ hội để mua cổ phiếu ngân hàng với các điều khoản ưu đãi. Warren Buffett đã trả 5 tỷ USD để mua cổ phiếu ưu đãi cổ tức của ngân hàng và cam kết mua thêm 5 tỷ USD cổ phiếu phổ thông nếu cần. Tuy nhiên, ngân hàng cần thêm vốn để đảm bảo đủ thanh khoản. Goldman Sachs đã nhận được 10 tỷ đô la tiền theo chương trình TARP (Chương trình cứu trợ tài sản khó khăn), được tài trợ bởi Bộ Tài chính Hoa Kỳ. Số tiền này được chuyển cho Goldman Sachs vào tháng 2008 năm 2009 và được hoàn trả kèm lãi vào tháng 5 năm XNUMX. Hơn nữa, ngân hàng đã nhanh chóng tổ chức chào bán cổ phiếu ra công chúng, huy động thêm XNUMX tỷ USD vốn từ thị trường.

Ngân hàng thấy mình gặp vấn đề về thanh khoản tạm thời. Tuy nhiên, anh ấy đã có một doanh nghiệp hoạt động tốt để xoay chuyển tình thế một cách nhanh chóng. Ngay trong tháng 2009 năm 23, Goldman đã hoàn trả khoản vay TARP (với lãi suất lên tới XNUMX%). Hai năm sau, Goldman Sachs mua lại cổ phiếu ưu đãi từ Berkshire Hathaway. Như vậy, chỉ sau XNUMX năm, ngân hàng này đã tự tin vào nền tảng của mình đến mức không muốn tiếp tục trả khoản “cổ tức đặc biệt” cho công ty của Warren Buffett.

Bằng cách hoàn trả các khoản vay từ chính phủ, các nhà quản lý cấp cao có thể nhận lại tiền thưởng cao. Năm 2008, Lloyd Blankfein và 6 giám đốc điều hành cấp cao khác đã quyết định không nhận tiền thưởng hiệu suất "vì lý do đạo đức". Thực tế là vào đầu năm 2008 và 2009, các ngân hàng Mỹ liên tục bị giới truyền thông và các chính trị gia công kích là thủ phạm chính của cuộc khủng hoảng 2007-2009. Sẽ an toàn hơn nếu không phơi bày bản thân một cách không cần thiết trước chính phủ, giới truyền thông và công chúng.

2010 – 2019: thời kỳ hậu khủng hoảng

Cuộc khủng hoảng trên thị trường cho vay dưới chuẩn khiến các ngân hàng trung ương ở nhiều quốc gia bắt đầu chính sách lãi suất cực thấp chưa từng có và nới lỏng định lượng (được gọi là QE). Người hưởng lợi từ chính sách này là thị trường tài chính. Nhiều thị trường chứng khoán đã trải qua một thị trường giá lên kéo dài nhiều năm. Mặc dù vậy, Goldman Sachs gặp khó khăn trong việc mở rộng quy mô. Doanh thu của công ty qua các năm 2010 - 2019 vẫn ở mức tương đương nhau. Trong giai đoạn này, ngân hàng đã 3 lần có doanh thu dưới 30 tỷ USD, thấp hơn rất nhiều so với những năm “hoàng kim” 2006-2007.. Những thay đổi trong mô hình kinh doanh là cần thiết.

Đến năm 2019, ngân hàng gặp vấn đề về tăng trưởng. Các vấn đề trong lĩnh vực đầu tư cũng không giúp ích gì cho sự phát triển. Một ví dụ điển hình là câu chuyện về Global Alpha Fund LP, quỹ phòng hộ lớn nhất do Goldman Sachs quản lý. Global Alpha là một phần của phân khúc GSAM (Goldman Sachs Asset Management). Trong nhiều năm nó là một biểu tượng của sự thành công. Từ một quỹ nhỏ với tài sản trị giá 10 triệu USD (giữa những năm 90), Global Alpha đã phát triển thành một quỹ quản lý trị giá kỷ lục 12 tỷ USD vào năm 2007. Thành công của quỹ là kết quả của việc triển khai các công nghệ hiện đại trong lĩnh vực đầu tư.

Quỹ đưa ra quyết định đầu tư dựa trên mô hình máy tính và ứng dụng giao dịch tần số cao (HFT - giao dịch cao tần). Các mô hình được tạo ra bởi các chuyên gia được trả lương cao như Cliff Asness và Mark Carhart, những người được gọi là "quants" (viết tắt của nhà phân tích định lượng). Tuy nhiên, thực tế mới xuất hiện trên thị trường sau năm 2007 có nghĩa là các mô hình cũ không còn có thể đạt được tỷ lệ hoàn vốn khả quan.. Năm 2008, tài sản do quỹ này quản lý giảm xuống chỉ còn 2,5 tỷ USD. Vào thời điểm quỹ đóng cửa vào năm 2011, AUM (Tài sản được quản lý) đã giảm xuống dưới 1 tỷ USD.

Tất nhiên, tăng trưởng kém không có nghĩa là hoạt động của ngân hàng không có lãi. Dù vậy, Goldman Sachs vẫn trụ được trên thị trường nhờ danh tiếng và giành được những hợp đồng béo bở. Một ví dụ là hợp đồng với Apple để dẫn đầu đợt chào bán trái phiếu ra công chúng trị giá 17 tỷ USD. Đó là một hợp đồng rất có uy tín mà các ngân hàng đầu tư lớn nhất trên thế giới cạnh tranh. Cuối cùng, đề nghị chung của Goldman Sachs và Deutsche Bank đã thắng thế.

Marcus by Goldman Sachs - một chi nhánh mới của ngân hàng

Trong những năm trước COVID-19, hoạt động của ngân hàng đã được định hướng lại chậm. Từ một ngân hàng chỉ tập trung vào đầu tư và quản lý tài sản, Goldman chuyển hướng sang khách hàng cá nhân. Vào tháng 2015 năm XNUMX, Goldman Sachs đã mua lại nền tảng tiền gửi của GE Capital Bank. Nhờ đó, ngân hàng đầu tư đã có được chỗ đứng đầu tiên trong phân khúc sản phẩm dành cho khách hàng cá nhân.

06 Goldman Marcus bởi biểu tượng Goldman

Nguồn: marcas.com

Tháng 2016/XNUMX, GS Bank được thành lập. Sáu tháng sau, Goldman khai trương hoạt động kinh doanh cho vay không có bảo đảm dưới thương hiệu Marcus by Goldman Sachs. Bản thân cái tên Marcus bắt nguồn từ tên của người sáng lập ngân hàng đầu tư - Marcus Goldman. Sau đó, nền tảng tiền gửi GS Bank được kết hợp với nền tảng Marcus.

Cuối năm 2017, ngân hàng đã cấp 2 tỷ USD cho vay tiêu dùng. Trong những năm tiếp theo, nền tảng này đã ra mắt tại Vương quốc Anh. Ngoài ra, Marcus đã không ngừng phát triển ưu đãi của mình. Tháng 2019 năm XNUMX Apple bắt tay hợp tác với Goldman Sachs phát hành Apple Card. Đây là thẻ tín dụng có thể được sử dụng bởi công dân Hoa Kỳ.

Hiện tại, các hoạt động liên quan đến phát triển ngân hàng số gây thua lỗ cho Goldman Sachs. Năm 2020, khoản lỗ khoảng 800 triệu đô la, và một năm sau là 1 triệu đô la. Tuy nhiên, điều đáng nói là doanh thu của mảng này đang tăng trưởng mạnh. Vào năm 050, chúng lên tới 2022 tỷ USD, nghĩa là tăng 1,5% so với năm trước. Sự tăng trưởng năng động như vậy chỉ có thể thực hiện được trong kênh kỹ thuật số.

Goldman Không ngừng gia tăng cam kết phát triển kênh kỹ thuật số. Vào tháng 2018 năm XNUMX, ngân hàng đã mua lại Tiền rõ ràng với giá 100 triệu USD. Clarity là một công ty khởi nghiệp hoạt động trên thị trường các sản phẩm tài chính dành cho khách hàng cá nhân. Lý do mua hàng là mong muốn mở rộng chức năng của ứng dụng Marcus.

Năm 2022, Goldman Sachs mua lại công ty fintech có tên GreenSky với giá 2,24 tỷ USD. Giao dịch này cũng dẫn đến việc mở rộng đề nghị cho vay của Marcus. Nhiều khách hàng của GreenSky đã sử dụng fintech để có được các khoản vay với giá rẻ để tài trợ cho việc mua nhà (ví dụ: một công trình cải tạo nhỏ).

2020–nay: Thời kỳ hỗn loạn

Chỉ có giai đoạn Covid-19, ngân hàng mới có thể tăng thu. Lý do là làn sóng tiếp theo của thị trường giá lên bắt đầu vào tháng 2020 năm 2021 và kéo dài đến cuối năm XNUMX. Kỷ nguyên tiền rẻ và lạm phát thấp, kết hợp với kích thích tài khóa, lại làm bùng phát cơn sốt đầu cơ. Một trong những người hưởng lợi là ngành tài chính. Điều này xuất phát từ thực tế là có một lối thoát khỏi tiền bạc. Nhiều công ty đã sử dụng lãi suất cực thấp để có được nguồn tài chính rất rẻ. Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán đã làm tăng mức độ tài sản được quản lý, dẫn đến hoa hồng cao hơn. Ngân hàng cũng sử dụng khoảng thời gian này để mua lại.

Vào tháng 2021 năm 1,7, Goldman Sachs đã mua tài sản dưới sự quản lý của NN Investment Partners với giá XNUMX tỷ euro. Tại thời điểm mua lại, tài sản được quản lý (AUM) lên tới 335 tỷ USD. Giao dịch nhằm tăng thị phần trong ngành quản lý tài sản. Bên bán cổ phần là công ty bảo hiểm NN Group.

Goldman Sachs vào năm 2022 đã mua lại NextCapital Group, một công ty khởi nghiệp của Mỹ hoạt động trong thị trường tư vấn robo cho các giải pháp hưu trí. Do đó, việc sẵn sàng tham gia vào xu hướng tự động hóa và đơn giản hóa việc quản lý tài sản đang ngày càng phát triển. Giao dịch được ước tính trị giá 110 triệu đô la. Tại thời điểm giao dịch, NextCapital có 7,5 tỷ đô la tài sản được quản lý.

Cuộc chiến ở Ukraine đã khiến thời kỳ lãi suất thấp trở thành dĩ vãng. vì chiến tranh ngân hàng cũng đóng cửa hoạt động tại Nga. Thị trường gấu trên thị trường chứng khoán Mỹ gây ra điều đó tài sản quản lý giảm và doanh thu từ hoạt động ngân hàng đầu tư giảm. Đồng thời, kết quả tài chính tồi tệ hơn đã buộc Goldman Sachs phải cắt giảm nhân sự. Vào tháng 2023 năm 3000, họ lên tới hơn XNUMX người.

Tóm tắt phần I

Goldman Sachs là câu chuyện về một công ty nhỏ trong ngành tài chính, trong vài thập kỷ đã trở thành một trong những ngân hàng đầu tư lớn nhất thế giới. Những nỗ lực của các đối tác, nhân viên và các nhà quản lý của Goldman đã giúp cho sự phát triển. Những tính cách tuyệt vời liên quan đến ngân hàng này bao gồm: Sidney WeinbergLloyd Craig Blanfein hoặc Henry Poulson. Phần này của câu chuyện đã bỏ qua những vụ bê bối lớn và mối quan hệ của ngân hàng với chính phủ. Thông tin thêm về các khía cạnh này sẽ có trong phần thứ hai của bài viết, sẽ sớm được xuất bản trong Forex Club. Trong phần thứ hai, chúng tôi sẽ cố gắng trả lời câu hỏi liệu Goldman Sachs có thực sự xứng đáng với phản hồi tiêu cựcmà một số nhà báo và nhà đầu tư bình thường có về công ty.

Bạn nghĩ sao?
tôi thích
33%
Thú vị
67%
Heh ...
0%
Sốc!
0%
Tôi không thích
0%
Thương xót
0%
Thông tin về các Tác giả
Forex Club
Forex Club là một trong những cổng đầu tư lớn nhất và lâu đời nhất của Ba Lan - các công cụ giao dịch và ngoại hối. Đây là một dự án ban đầu được ra mắt vào năm 2008 và là một thương hiệu dễ nhận biết tập trung vào thị trường tiền tệ.

Để lại phản hồi